Có tuổi hai mươi như thế

Giữa khói lửa của cuộc chiến tranh ác liệt nhất, một chàng sinh viên Hà Nội, một tài năng văn chương xuất sắc, đã cầm bút ghi lại những dòng nhật ký định mệnh. Anh không chỉ ghi lại tâm tư của một thế hệ, mà còn tiên cảm một cách kỳ diệu ngày chiến thắng cuối cùng của dân tộc. Anh là Nguyễn Văn Thạc, người lính trẻ mãi mãi dừng lại ở tuổi hai mươi, nhưng những trang viết của anh đã trở thành bất tử.

Gác bút nghiên ra trận

Nguyễn Văn Thạc không phải là một người lính bình thường. Anh là một trong những thanh niên ưu tú nhất của Hà Nội thời bấy giờ. Sinh năm 1952 tại làng Bưởi, trong một gia đình thợ thủ công đông con, cuộc sống của anh từ nhỏ đã gắn liền với sự lam lũ, vất vả. Cha mẹ có một xưởng dệt nhỏ, nhưng chiến tranh phá hoại của Mỹ đã khiến gia đình phải bán hết nhà cửa, máy móc để sơ tán về quê ở Cổ Nhuế, Từ Liêm. Tài sản nhanh chóng khánh kiệt, mẹ anh phải đi cắt cỏ bán để có tiền ăn. Cậu bé Thạc vừa đi học, vừa phải làm thêm để giúp đỡ gia đình.

Thế nhưng, nghịch cảnh không thể dập tắt được tài năng thiên bẩm. Suốt 10 năm phổ thông, Thạc luôn là học sinh giỏi toàn diện. Anh đặc biệt có năng khiếu về môn Văn. Năm lớp 7, anh đoạt giải Nhì cuộc thi học sinh giỏi Văn thành phố Hà Nội. Đỉnh cao là năm lớp 10, niên học 1969-1970, Nguyễn Văn Thạc đã giành giải Nhất trong kỳ thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc. Với thành tích ấy, anh vốn được xếp vào diện đi đào tạo ở Liên Xô. Nhưng tiếng gọi của Tổ quốc cấp thiết hơn. Theo chủ trương chung, phần lớn nam sinh xuất sắc năm đó đều ở lại để tham gia quân đội.

Trong thời gian chờ nhập ngũ, Thạc thi đỗ vào khoa Toán – Cơ của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, một trong những khoa danh giá nhất. Trí tuệ và sự say mê học tập của anh tiếp tục tỏa sáng. Vừa học năm thứ nhất, anh vừa tự học để hoàn thành chương trình năm thứ hai và được nhà trường đồng ý cho lên thẳng năm thứ ba. Nhưng rồi, cuộc chiến ngày càng gay go, ác liệt. Hàng ngàn sinh viên phải tạm gác bút nghiên lên đường ra trận. Ngày 6 tháng 9 năm 1971, chàng sinh viên xuất sắc Nguyễn Văn Thạc nhập ngũ, khoác lên mình màu áo xanh của người lính.

Anh viết trong nhật ký ngày 2 tháng 10 năm 1971: “Nhiều lúc mình cũng không ngờ nổi rằng mình đã đến đây. Không ngờ rằng trên mũ là một ngôi sao. Trên cổ áo là quân hàm đỏ. Cuộc đời bộ đội đến với mình tự nhiên quá, bình thản quá và cũng đột ngột quá”. Chàng sinh viên quen với màu áo trắng, màu xanh da trời nay trìu mến khoác lên mình màu xanh của núi đồi, của hy vọng. Đó là sự chuyển mình tất yếu của một thế hệ, đặt vận mệnh đất nước lên trên tất cả những ước mơ cá nhân.

Thế hệ sinh viên Thủ đô “xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”, chào quê hương, người thân vào chiến trường với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, Hà Nội, năm 1971.

Một tâm hồn nhạy cảm giữa hiện thực khốc liệt

Cuốn nhật ký mà sau này được nhà thơ Đặng Vương Hưng và gia đình đặt tên là “Mãi mãi tuổi hai mươi” đã mở ra một thế giới nội tâm phong phú, sâu sắc và đầy trăn trở của Nguyễn Văn Thạc. Anh không chỉ ghi lại những sự kiện, mà còn ghi lại những suy tư, những cảm nhận tinh tế về cuộc sống, con người và thời cuộc.

Những ngày đầu quân ngũ, trong anh là sự bỡ ngỡ của một chàng trai Hà Nội lần đầu xa nhà, sống trong tình thương của những người dân bình dị. Anh kể về gia đình người chủ nhà ở Hà Bắc (nay là Bắc Giang) đã nhường cả ba gian nhà trên cho sáu người lính trẻ, về chị chủ nhà 28 tuổi tốt bụng cho chuối, cho lạc ăn sáng. Anh quan sát và cảm nhận tất cả: “Chân bước trên rơm thơm, khó ai định liệu được mình còn ao ước cuộc sống nào hơn thế nữa. Mặc dù hạnh phúc ấy mỏng manh như chính số người nhận ra cảm xúc ấy là hạnh phúc của cuộc đời…”.

Tâm hồn văn chương của Thạc thấm đẫm trong từng trang viết. Anh nhìn những chiếc lá tre và suy tư: “Vậy mà những chiếc lá tre kia vẫn dịu dàng, vẫn đưa ta vào cõi êm ả của tâm hồn. Thật lạ biết bao!”. Khi hành quân qua những cánh rừng, anh thấy “rừng già kỳ lạ quá”, nơi “khuôn mặt người chạm vào mặt lá”. Anh yêu những cây bạch đàn, nhắn nhủ chúng hãy “run rẩy và ru cho anh ngủ” khi anh nằm xuống.

Anh cũng là một người quan sát tinh tường và sâu sắc về con người. Nổi bật trong nhật ký là những trang anh viết về người bạn cùng nhập ngũ, nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm sau này. Thạc sớm nhận ra tài năng của bạn: “Cầm (…) viết được nhiều, quả thực ở nó có tài năng, hay ít ra đó cũng là một khả năng tốt”. Anh nhận xét thơ Cầm “đèm đẹp và trơn tru, nhẵn nhụi” nhưng “thiếu một sức ấm nóng lan toả”. Anh vừa trân trọng, vừa lo lắng cho người bạn tài hoa có phần “ngang tàng và thiếu nghiêm túc” trong cách sống và cầu mong đất nước sẽ không để lãng phí một tài năng đáng quý.

Nhưng thế giới nội tâm của Thạc không chỉ có những rung cảm thơ mộng. Anh đối diện với chính mình một cách nghiêm khắc, đôi khi đến gay gắt. Anh luôn trăn trở với câu hỏi lớn của một người cầm bút trẻ tuổi: “Liệu mình có thể làm được gì, đóng góp được gì cho Văn học chống Mỹ hay không? Biết bắt đầu từ đâu và đi theo con đường nào?”. Anh thần tượng nhà văn Liên Xô Boris Polevoy, nhà thơ Phạm Tiến Duật và luôn mơ ước có thể viết nên những tác phẩm lớn lao về cuộc chiến.

Và cũng như bao người lính trẻ khác, anh không tránh khỏi những phút yếu lòng, những nỗi sợ hãi rất con người. Anh viết: “Kể ra, bây giờ mà chết thì thật đáng tiếc… Khó gì đâu – cái chết – chỉ một viên đạn lạc hay một hơi bom. Sự thật bi đát đó không trừ một ai cả”. Có những lúc, sự chán nản, thất vọng dâng lên đến cùng cực, đến mức anh muốn xé đi cuốn nhật ký. “Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay… Tôi lê gót suốt con đường mòn – Con đường mòn như chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây”.

Đó không phải là sự hèn nhát. Đó là sự chân thật đến tột cùng của một tâm hồn nhạy cảm, một trí thức trẻ đang đối diện với hiện thực nghiệt ngã của chiến tranh. Và điều quan trọng là, anh đã vượt lên tất cả những khoảnh khắc ấy, để tiếp tục bước đi, chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng.

Lời hẹn ước mùa hạ và lời tiên tri về ngày 30/4

Giữa những trang nhật ký đầy ắp suy tư về đất nước, về chiến tranh và trách nhiệm, có một hình bóng luôn trở đi trở lại, dịu dàng và tha thiết. Đó là P., N.A, hay Như Anh – những cái tên viết tắt chỉ chung một người con gái, cô bạn học Phạm Thị Như Anh.

Họ quen nhau tháng 4 năm 1971, trong một buổi gặp mặt các học sinh giỏi Văn của thủ đô. Như Anh, con gái của luật sư nổi tiếng Phạm Thành Vinh, kém Thạc một tuổi và học sau một lớp. Tình cảm trong sáng và lãng mạn của đôi bạn trẻ nảy nở qua những lần hẹn gặp ở thư viện Hà Nội. Chỉ có 5 lần gặp gỡ, với tổng cộng khoảng 20 giờ đồng hồ, nhưng chừng đó là đủ để hình bóng họ không bao giờ phai mờ trong nhau.

Trong tâm trí Thạc, Như Anh thường gắn liền với chiếc áo màu xanh da trời chị hay mặc. Hình ảnh đó trở thành một biểu tượng, một nỗi nhớ khôn nguôi: “Trời xanh thì ai nhìn cũng thấy, ngỡ như rất gần mà không thể nào với tới được!”.

Nhưng điều kỳ diệu nhất, đáng kinh ngạc nhất trong câu chuyện của họ là lời hẹn ước gắn với một ngày lịch sử. Trong một lá thư gửi Như Anh ngày 18 tháng 9 năm 1971, Nguyễn Văn Thạc đã viết một câu mang tính tiên tri: “30-4-1975, T. sẽ trả lời cho P. câu: Hạnh phúc là gì?”.

Thời điểm anh viết những dòng này là gần 4 năm trước ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Không ai có thể giải thích được vì sao một chàng trai 19 tuổi lại có thể dự cảm chính xác đến như vậy. Đó không phải là một sự nhắc đến tình cờ. Trong một lá thư khác ngày 4 tháng 9 năm 1971, anh còn “đính chính” lại với bạn: “Anh nhớ nhầm rồi, Lan (tức Thạc – mật danh) bảo ngày 30-4-1975 mới trả lời câu “hạnh phúc là gì” cơ mà, chứ có phải ngày 11-4-1975 đâu?”.

Lời hẹn ước ấy không chỉ là lời của một chàng trai với người con gái mình thương mến. Nó kết tinh niềm tin sắt đá, sự lạc quan mãnh liệt của cả một thế hệ vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. “Hạnh phúc” mà Thạc hẹn trả lời, chính là hạnh phúc lớn lao của ngày đất nước trọn niềm vui, ngày non sông thu về một mối. Anh đã không thể sống đến ngày đó để thực hiện lời hẹn, nhưng lời tiên tri của anh đã trở thành sự thật, vang vọng mãi cùng non sông.

“Nếu như tôi không trở lại…”

Cuốn nhật ký ″Mãi mãi tuổi hai mươi″ của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc

Tháng 4 năm 1972, đơn vị của Thạc lên chuyến tàu quân sự vào chiến trường. Chuyến tàu định mệnh ấy được anh ghi lại đầy cảm xúc: “…ra ga, thì lính ồ lên phấn khởi, đầu tàu hướng về phía Hà Nội – “Đi” rồi! Thế là nhất định vào trong ấy. Vội vàng viết thư – Tàu qua Cửa Nam những cánh thư trắng bay ào ạt xuống đường – Gửi hộ nhé, gửi hộ nhé – Báo cho những người thân của chúng tôi rằng chúng tôi đã xa Hà Nội…”.

Cuốn nhật ký dày 240 trang được anh viết trong gần 7 tháng, giữa những giờ huấn luyện, những chặng hành quân vất vả, phải đi xa, đeo nặng. Những trang cuối cùng được viết vào một ngày cuối tháng 5 năm 1972 tại Hà Tĩnh. Dường như anh đã linh cảm được điều gì đó. Anh viết những lời tạm biệt cuốn sổ thân yêu:

“Và bây giờ, tạm biệt cuốn Nhật ký đầu tiên của đời lính. Không kịp xem lại một lần. Không kịp chữa những âm bằng âm trắc trong cấu trúc một câu văn vội vàng và bụi bặm… Ngày mai, ngày kia… Phải để lại tất cả ở đằng sau. Tôi không thể để cho ai đọc những dòng suy nghĩ này. Trừ khi tôi không còn sống mà gìn giữ nữa…”.

Và rồi anh đặt ra câu hỏi day dứt, một câu hỏi cho chính mình và cho cả thế hệ mai sau: “Ừ, nếu như tôi không trở lại, ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau này?”. Anh ao ước rằng những trang giấy còn lại sẽ “toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc”, đừng “trống trải và bí ẩn như những trang giấy này”.

Lời trăn trối ấy đã vận vào cuộc đời anh. Trong một trận đánh ác liệt bên Thành cổ Quảng Trị, người chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc bị trọng thương, một mảnh pháo đã cắt ngang đùi trái. Dù được đồng đội băng bó, nhưng vì mất máu quá nhiều, anh yếu dần đi. Những lời cuối cùng của anh thật bình thản và bi tráng: “Mình tỉnh thế này tức là sắp chết rồi… Chỉ tiếc là không còn chiến đấu được nữa… bao dự định còn dang dở”. Anh hy sinh trên vòng tay đồng đội vào ngày 30 tháng 7 năm 1972, khi chưa đầy 20 tuổi đời và 10 tháng tuổi quân.

Nguyễn Văn Thạc đã không trở lại. Anh không thể tự tay viết tiếp những trang vui vẻ và đông đúc như anh ao ước. Nhưng cuộc đời anh, tâm hồn anh, lý tưởng và những dự cảm của anh đã được những người còn sống viết tiếp. Cuốn nhật ký của anh, cùng với hàng trăm lá thư, đã được người anh trai Nguyễn Văn Thục và gia đình gìn giữ, được nhà thơ Đặng Vương Hưng sưu tầm, giới thiệu, và trở thành di sản vô giá cho thế hệ trẻ.

Anh lính binh nhì Nguyễn Văn Thạc, người giỏi Văn nhất miền Bắc một thời, người đã tiên tri về ngày 30/4, giờ đây đang yên nghỉ trong nghĩa trang liệt sĩ ở Hà Nội. Anh đã ngã xuống, nhưng anh vẫn sống, sống mãi trong những trang viết thấm đẫm tình yêu và lý tưởng, sống mãi ở tuổi hai mươi. Anh và thế hệ của anh đã trở thành bất tử, như một lời nhắc nhở rằng, nền hòa bình và thống nhất của đất nước đã được trả bằng cái giá của những cuộc đời đẹp nhất, những ước mơ dang dở và những tâm hồn trong sáng nhất.

 

Chu Văn Khánh