Thời trang và nghệ thuật tạo hoa văn

Ở tất cả 54 dân tộc của Việt Nam, vải sợi bông được sử dụng phổ biến, tơ tằm thường được dùng để tạo hoa văn và may trang phục lễ hội. Ngoài ra, phụ nữ Hmông còn có truyền thống dệt vải lanh. Ngoại trừ ở người Việt, màu chàm được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, người Pà Thẻn, Lô Lô Hoa và Hmông Hoa có những bộ y phục đặc biệt sặc sỡ. Trên một sản phẩm có thể có nhiều kỹ thuật trang trí khác nhau, như thêu, đáp vải, batik… Tuy nhiên, mỗi tộc người thường có kỹ thuật đặc trưng: thêu của người Dao và Phù Lá; đáp vải của Lô Lô, Pu Péo; batik của Hmông, Dao Tiền; ikat của Thái, Khơ-me; hoa văn dệt của Mường, Tày và các tộc người ở Tây Nguyên. Tất cả được thực hiện thủ công và trước đây dùng chất liệu tự nhiên. Đồ án trang trí mang bản sắc tộc người và gắn với môi trường sống. Nó thể hiện sự sáng tạo, tính thẩm mỹ, đức cần cù của phụ nữ và được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Trang phục biến đổi theo thời gian và cùng với sự giao lưu. Ngay cả những vùng núi xa, thời trang vẫn luôn hiện hữu. Hiện nay, sự thay đổi càng ngày càng nhanh, đặc biệt ở người Hmông và người Dao vùng núi phía Bắc. Vải công nghiệp, len và phẩm màu hoá học được sử dụng rộng rãi.

1. Thêu
Thêu là kỹ thuật ngày càng trở nên phổ biến ở các tộc người miền núi phía Bắc vì phụ nữ có thể mang đồ đi theo và thêu ở bất cứ đâu: ở nhà, trên nương, khi đi chợ, đi chơi. Các bé gái học thêu từ rất sớm và đến 12-13 tuổi đã thêu thành thạo. Người Hmông thêu chéo mũi tạo những dấu nhân. Người Dao và người Thái chủ yếu sử dụng kỹ thuật thêu luồn sợi và vắt chỉ. Các mẫu thêu truyền thống được ghi nhớ trao truyền từ đời này sang đời khác. Với kỹ thuật thêu, người ta có thể tạo những đường cong tự nhiên hơn, nhờ vậy có thể sáng tạo được các mẫu hoa văn hiện đại hơn.

2. Batik

Batik là kỹ thuật “nhuộm bao vải”, nghĩa là một phần vải được bao che trước khi nhuộm để tạo hoa văn. Kỹ thuật này được sử dụng phổ biến ở người Hmông và Dao Tiền. Người ta vẽ lên vải các hoạ tiết bằng sáp ong đã đun nóng chảy. Dụng cụ vẽ là loại bút đặc biệt có ngòi cong bằng đồng hoặc một số khung dập hình tam giác, những ống tre nhỏ. Khi sáp khô, vải được đem nhuộm chàm nhiều lần, sau đó nhúng vào nước sôi cho sáp tan hết. Các họa tiết sáng màu đã được bao bằng sáp để bảo vệ trước khi nhuộm sẽ xuất hiện trên nền vải chàm sẫm.

3. Đáp vải

Đáp vải là kỹ thuật tạo các hoa văn bằng nhiều miếng vải màu nhỏ khâu lên trên một tấm vải nền. Vải để đáp có các màu khác nhau, được cắt hình tam giác, hình vuông, chữ nhật, dải băng… rồi khâu đáp lên vải nền, mũi khâu giấu ở mặt sau không để lộ đường chỉ. Kỹ thuật đáp vải phổ biến ở một số tộc người miền núi phía Bắc. Tuy nhiên mỗi dân tộc thường có những kiểu ghép riêng. Người Lô Lô, Pu Péo ghép các hình tam giác. Người Hmông có kỹ thuật đáp vải rất tinh xảo gọi là “đáp vải ngược”, nghĩa là mảnh vải đáp được cắt lượn thành các hoạ tiết rồi đáp lên y phục để lộ màu nền bên dưới.

4. Ikat

Ikat là kỹ thuật “nhuộm bao sợi”. Khác batik là “nhuộm bao vải”; với ikat không phải dùng tấm vải mà là sợi được bao trước khi nhuộm. Người ta dùng xơ vỏ cây hoặc sợi nilon buộc bao xung quanh bó sợi ở những đoạn khác nhau rồi đem nhuộm. Các phần sợi được bao sẽ không bắt màu. Quy trình bao – nhuộm lặp lại nhiều lần để tạo những sợi đa sắc. Sợi này được dùng làm sợi ngang để dệt nên tấm vải ikat. Một số nơi dùng kỹ thuật “nhuộm bao sợi” để xử lý các sợi sẽ chăng lên khung dệt làm sợi dọc. Kỹ thuật ikat phổ biến ở người Thái Đen, Khơ-me, Ba-na… Hoa văn ikat có vẻ đẹp rất riêng nhờ các đường biên mờ.

5. Hoa văn dệt

Để tạo hoa văn, người ta thêm một sợi ngang khác biệt với sợi nền. Sợi ngang bổ sung này được chèn giữa làn sợi dọc theo hai kỹ thuật khác nhau: hoặc sợi chạy xuyên suốt chiều ngang khổ vải, hoặc chỉ ở vị trí dự định trang trí. Người dệt thao tác trên mặt trái tấm vải. Khung dệt có thể là loại khung cửi lớn đạp chân, như của người Thái, người Mường, hoặc loại buộc lưng kiểu inđônêdiêng của các dân tộc ở Tây Nguyên. Các khung dệt này có hai hàng go cơ bản và các go phụ hoặc những que nhỏ dùng tách sợi dọc để chèn sợi ngang phụ tạo hoa văn. Hoa văn càng phức tạp thì số lượng các go phụ cần dùng càng nhiều.
6. Thời trang Việt  
Ở Bắc bộ, váy và áo tứ thân là y phục phổ biến của phụ nữ đến đầu thế kỷ XX. Ở Nam bộ áo dài ngũ thân được mặc từ thế kỷ XVIII, quần áo bà ba phổ biến từ cuối thế kỷ XIX. Những năm 1930, hoạ sỹ Cát Tường ở Hà Nội đã cải tiến từ chiếc áo tứ thân của Bắc bộ và áo ngũ thân của Nam bộ thành áo dài. Từ đó chiếc áo dài Việt Nam dù trải qua bao lần cách tân, tà áo lúc dài đến bắp chân, lúc chỉ ngắn ngang đầu gối, rồi lại dài xuống chấm gót… Tuy nhiên hình dáng chiếc áo về cơ bản vẫn giữ nguyên và trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam.

Leave a Reply

Your email address will not be published.